Tên di sản : Chùa Bạch Á
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 3332/QĐ – UBND
Giới thiệu
Động Bạch Á là di tích lịch sử văn hóa và thắng cảnh do địa chất kiến tạo nên. Xưa kia, nơi đây là vùng cửa biển. Sau thời gian dài được phù sa bồi đắp, vùng đất này đã trở nên bằng phẳng và đông dân cư như hiện nay.
Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú khi chép về Động Bạch Á đã viết: “Động Bạch Nha ở bãi biển huyện Nga Sơn, ngọn núi cao đứng sững lên, giữa núi có động sâu, gắn với động Từ Thức”.
Về quy mô cấu trúc:
Động Bạch Á nằm trong ngọn núi có độ cao 40,2m so với mặt nước biển. Từ trên đỉnh ngọn núi này chúng ta có thể quan sát cảnh quan thiên nhiên kỳ thú của vùng đông bắc huyện Nga Sơn một cách rõ ràng.
Để vào Động Bạch Á có 4 lối vào theo bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc. Các lối phía Đông và phía Nam nằm cao trên lưng chừng động, nên ít được sử dụng ra vào, chủ yếu chỉ sử dụng hai lối là phía tây và phía bắc. Phía Tây là cửa ra vào chính, phía bắc là lối đi phụ.
Từ phía Tây vào, chúng ta phải đi từ dưới lên trên cao khoảng 7m để vào động bằng các bậc lên xuống. Hai bên lối lên xuống này là 6 con rồng bằng đá nguyên khối (4 con lớn, 2 con nhỏ).
Tiếp đến là cổng Tam quan được xây đơn giản bằng gạch vữa. Phía trong là sân có diện tích 93,6m2 (chiều dài 12m, chiều rộng 7,8m) được láng xi măng. Giữa sân xây một bệ rộng 1m, cao 1m, đặt tượng Quan Âm Bồ Tát cao 3m.
Tiếp giáp với sân là cửa động rộng 7,2m, cao 3m. Phía trên cửa động có khắc ba tấm bia ma nhai.
Qua cửa động vào bên trong được chia thành bốn cung với kích thước khác nhau.
Cung thứ nhất từ ngoài vào có chiều rộng là 7,6m, dài 9,6m, cao 3,4m.
Cung thứ hai có kích thước dài 7,4m, rộng 11m, cao 9,3m.
Cung thứ ba có kích thước dài 10m, rộng 9,5m, cao 6m. Phía trên chính giữa động có một tấm bia.
Cung thứ tư phía trong cùng có kích thước dài 8,4m, rộng 11,8m, cao 8,8m.
Từ cung trong cùng này được mở rộng ra hai phía bắc và phía nam hai khoảng không rộng rãi thông ra ngoài bằng hai cửa nhỏ. Gian phía bắc rộng 3,8m, dài 11m, cao 3,8m. Gian phía nam có kích thước dài 38m, rộng 12m, cao 10m. Tại các vị trí này đều có dấu vết của nền móng xây dựng cũ (có thể đây là nhà Chính tẩm cũ?). Phía sau được thông ra ngoài bởi một lối nhỏ phía trên cao hơn so với nền 3,4m.
Nhờ có bốn cửa thông nhau nên trong động quanh năm luôn thoáng đãng, khô ráo và mát mẻ. Trên vách động không có nhiều nhũ đá tạo nên những hình thù trừu tượng như nhiều động khác quanh đây, nhưng ở đây thường có rất nhiều dơi cư trú.
Về hệ thống thờ tự:
Hiện nay trong động gồm 4 ban thờ:
Cung trong cùng gồm hệ thống thờ Phật với 5 bệ thờ được xây bằng gạch và vôi, vữa trên nền móng của chùa cũ. Kích thước chiều dài của các bậc bằng nhau (dài 3,8m), chiều rộng và chiều cao hơi khác nhau:
Bệ thứ nhất (từ trên xuống): cao 2,05m; rộng 0,8m.
Bệ thứ hai: cao 1,85m, rộng 0,5m.
Bệ thứ ba: cao 1,52m, rộng 0,52m.
Bệ thứ tư: cao 1,23m, rộng 4,7m.
Bệ thứ năm: cao 0,93m, rộng 0,6m.
Ngăn cách hai cung phía ngoài và hai cung phía trong là bức cửa võng bằng gỗ có kích thước cao 2,8m, 3,8m.
Tại cung thứ hai là hệ thống thờ mẫu gồm 3 bệ thờ đặt hệ thống thờ mẫu. Kích thước chiều dài các bệ bằng nhau (dài 2,2m), chiều cao và chiều rộng khác nhau:
Bệ thứ nhất: Cao 1,05m, rộng 0,64m.
Bệ thứ hai: Cao 0,85m, rộng 0,7m.
Bệ thứ ba: Cao 0,56m; rộng 0,69m.
Về các tượng điêu khắc bằng đá:
Tượng người: Động Bạch Á là di tích còn khá nhiều các pho tượng người bằng đá có niên đại rất sớm. Rất tiếc qua thời gian tồn tại các pho tượng này đã không còn nguyên vẹn như trước, một số tượng đã bị đập vỡ mất nhiều phần. Trước kia các pho tượng này được đặt hai bên đối diện trong động, sau khi bị đập phá nhân dân địa phương đã tìm lại được một số pho và đưa vào trong động.
Tượng Vũ sĩ: Tượng đã bị mất phần đầu, phần thân phía dưới và phần tay. Thân tượng chắc khỏe, râu dài, mặc áo Võ tướng bó sát người, cổ áo phía trước trang trí hình cánh sen nối tiếp, giữa ngực trang trí một bông hoa sen lớn, tay phải cầm côn giơ lên phía trước ngực. Vai áo được trang trí biểu tượng hình vảy rồng và các tia lửa xung quanh. Kích thước còn lại đo được là cao 65cm, rộng 75cm, dày 40cm.
Tượng Phật: Đã bị mất phần đầu, phần tay phải và một phần đế. Tượng có kích thước cao 85cm, rộng 70cm, dày 50cm. Tượng được tạc với khối hình trau chuốt, những nếp áo, cà sa lượn chéo mềm mại. Tượng đang ngồi khoanh chân xếp bằng, tay trái đặt trong lòng, phần tay phải có tư thế đặt trên đùi chân phải (đã bị vỡ).
Ngoài hai pho tượng trên các pho còn lại đã bị vỡ nhiều phần kích thước tương đối như nhau, các họa tiết trang trí đơn giản hoa, cánh sen và các vân xoắn.
Rồng:
Được chạm khắc công phu trên những phiến đá tảng lớn. Rồng được tạc có dáng giống nhau. Về hình dáng, phong cách và các họa tiết trang trí. Rồng có dáng khỏe khoắn, đơn giản, thân mập uốn khúc hình chữ S (gồm 5 khúc) được thu nhỏ dần về phần đuôi. Đầu rồng ngẩng cao, bờm tỉa thành nhiều đường nhỏ, dài và mảnh trải dọc gáy rồng. Thân rồng có vảy hình vảy cá được phủ khắp toàn thân. Kích thước của 4 con rồng lớn tương đối bằng nhau, dài 2,4m, cao 0,6m, dày 028m. Đế cao 0,4m được chôn xuống đất. Hiện nay, do tác động của thiên nhiên và con người trong một thời gian dài tồn tại, con rồng lớn dưới cùng phía bên phải đã bị mất phần đầu. Các con còn lại tương đối lành nguyên. Hai rồng nhỏ phía trên có kích thước dài 1,34m, cao 0,42m dày 0,15m.
Sấu: Về dáng dấp gần giống với con sóc, tư thế như đang lao xuống dốc, chân thu lại. Phần đuôi đã bị mất, kích thước còn lại dài 1,2m, rộng 0,63m, dày 0,17m.
Bia:
Bia chữ “Phật”: Bia hình chữ nhật, kích thước cao 1,83m (trán bia hình bán nguyệt cao 0,26m, đế cao 0,2m); rộng 1,12m; dày 0,24m. Riềm bia rộng 9cm được trang trí hình rồng nằm trong 1/2 lá đề.
Hình thức bia đơn giản, mặt trước bia khắc một chữ “Phật” kích thước gần choán hết lòng bia với nét chạm thoáng, đẹp.
Trên trán bia khắc 8 chữ triện, được giáo sư Hà Văn Tấn đã dịch là “Trùng tu Diên Linh Chân Giáo tự bi” (Bia trùng tu chùa Diên Linh Chân Giáo). Phải chăng "Diên Linh Chân Giáo” là tên chữ của chùa? Dọc theo chiều dày của hai tấm bia là các họa tiết hình tròn nối tiếp nhau, bên trong trang trí hình rồng.
Bia ma nhai:
Tấm bia thứ nhất: nằm phía bên phải Động. Bia hình chữ nhật có kích thước dài 1,8m, cao 0,8m. Riềm bia rộng 6cm, được trang trí hình rồng chạy dọc quanh bia. Bia do Hữu Thiên Nam động chủ (Lê Thánh Tông) đề vào tháng 2 năm Hồng Đức thứ 8 (1467).
Tấm bia thứ hai: nằm phía trên tấm bia thứ nhất. Bia có kích thước dài 1,6m; rộng 1,1m. Riềm bia rộng 10cm, trang trí hình rồng xung quanh thân bia. Bia do Bảo Thiên động chủ (Lê Tương Dực) đề vào tháng 2 năm Hồng Thuận thứ 3 (1511).
Tấm bia thứ ba: nằm bên trái hai tấm bia thứ nhất và thứ hai. Bia có kích thước dài 1,3m, rộng 0,86m. Riềm bia rộng 10cm, không trang trí hoa văn. Bia do Nhật Nam Nguyên chủ (chúa Trịnh Sâm) đề vào tháng 2 năm Tân Mão (1771).
Tấm bia thứ tư: nằm phía trên vách chính giữa động ở cung thứ ba. Kích thước dài 1,55m; rộng 1,05m. Riềm bia rộng 9cm, trang trí hoa văn dây leo. Bia do Thượng Dương động chủ (Lê Hiến Tông) đề vào tháng 2 năm Cảnh Thống thứ 4 (1501).
Ngoài bốn tấm bia trên, hai bên vách cửa động còn có hai tấm bia khác. Tấm bia phía trái cao 1,2m, rộng 0,6m. Trán bia hình bán nguyệt cao 16cm, trang trí hình “lưỡng long chầu nhật”. Riềm bia rộng 0,5cm, trang trí dây leo. Bia đã bị mờ gần như toàn bộ chữ được khắc.
Tấm bia bên phải cao 1,13m, rộng 0,6m. Trán bia hình bán nguyệt, cao 22cm. Toàn bộ bia không có chữ.
Các hiện vật trong di tích:
Trải qua thời gian dài tồn tại, một số hiện vật tại di tích đã bị mất mát và hư hỏng. Tuy nhiên, nhân dân địa phương đã bảo vệ và gìn giữ được khá nhiều các hiện vật cổ có giá trị rất lớn gồm:
Hiện vật bằng gỗ:
Tượng cổ (loại lớn): 09 pho.
Tượng cổ (loại nhỏ): 03 pho.
Mâm bồng cổ (loại trung): 06 cái.
Mâm bồng cổ (loại nhỏ): 03 cái.
Đài chén cổ: 16 cái.
Ống hoa cổ: 04 cái.
Ống hoa mới: 02 cái.
Ống hương cổ (loại lớn): 02 cái.
Cây nến cổ: 02 cây.
Cây nến mới: 04 cây.
Tắc tải cổ: 02 cái.
Tắc tải mới: 01 cái.
Đài chén mới: 16 cái.
Khám thờ: 01 cái.
Long ngai cổ: 01 cái.
Khay mịch cổ: 03. Cái
Cửa Võng mới: 01 bức 2.
Đồ đá
Bia “ma nhai” cổ: 04 tấm (lành nguyên, rõ chữ).
Bia “ma nhai” cổ: 01 tấm (chữ đã bị mờ gần hết).
Phôi bia “ma nhai” cổ: 01 tấm (chưa khắc chữ).
Tượng quan hầu cổ: 06 pho.
Đế tượng cổ hình lục lăng: 01 cái.
Đế tượng cổ hình chữ nhật: 01 cái.
Sấu đá cổ: 01 con.
Rồng đá: 06 con (thời Trần).
Bia chữ “Phật”: 01 tấm (thời Lý).
Khánh đá cổ: 01 cái (bị vỡ một phần).
Đá lan giai: 05 tảng.
Đá tảng kê chân cột: 01 cái.
Bộ sứ:
Bát hương cổ: 05 cái.
Đồ gốm:
Bát hương gốm cổ: 01 cái.
Đồ đất nung:
Đầu rồng trang trí cổ: 01 cái;
Bát đấu cổ, trang trí cánh sen: 01 cái;
Gạch trang trí hoa cúc dây leo: 03 viên.